Hơn
một thế kỷ qua, lăng miếu Lê Văn Duyệt đã được xây dựng và hoàn thiện
như ngày nay. Đây là một công trình kiến trúc thể hiện tài năng và quá
trình sáng tạo của quần chúng nhân dân lao động. Thể hiện qua nghệ
thuật kiến trúc (mang dấu ấn của kiến trúc lăng mộ cố đô Huế với những
tầng mái "trùng thiềm điệp ốc").
24 tháng 4, 2011
LĂNG ĐỨC TẢ QUÂN LÊ VĂN DUYỆT (PHẦN 2)
Bố
cục của "Thượng công linh miếu" bao gồm tiền điện, trung điện và chánh
điện. Mỗi gian điện thờ cách nhau bằng một sân thiên tỉnh. Đối xứng hai
bên trục nhà chính là hai dãy Đông lang và Tây lang. Ơở góc Tây Bắc của
khuôn viên lăng mộ còn có một phường môn che chiếc đỉnh Hòa Bình được
đắp bằng xi-măng.
Thượng công linh miếu nhìn từ bên trái.
Thượng công linh miếu nhìn từ bên trái.
LĂNG ĐỨC TẢ QUÂN LÊ VĂN DUYỆT (PHẦN 1)
SƠ LƯỢC TIỂU SỬ TẢ QUÂN LÊ VĂN DUYỆT(1764-1832)
Lê Văn Duyệt sinh năm Giáp Thân (1764) tại Cù Lao Hổ, cạnh vàm Trà Lọt, nay thuộc làng Hòa Khánh, tỉnh Tiền Giang. Nội tổ là Lê Văn Hiếu từ Quảng Ngãi đi vào Nam sinh sống. Sau khi ông Hiếu qua đời, cha Lê Văn Duyệt là Lê Văn Toại và thân mẫu là Phúc Thị Hào rời Trà Lọt đến ở tại vùng Rạch Gầm, thuộc làng Long Hưng tỉnh Tiền Giang ngày nay.
Ông theo Chúa Nguyễn Ánh từ năm 17 tuổi,đến năm 1789 ông bắt đầu đứng vào hàng tướng lãnh của chúa Nguyễn. Năm 1793, Lê Văn Duyệt cùng với Nguyễn Phúc Ánh đi đánh Qui Nhơn, lấy được phủ Diên Khánh và phủ Bình Khương. Tháng 1 năm 1801 ông cùng chúa và các tướng lãnh khác như Nguyễn Văn Trương, Tống Phước Lương, Võ Di Nguy đánh chiếm cửa biển Thị Nại (trận Thị Nại). Quân Tây Sơn thua to. Tháng 4 Nguyễn Phúc Ánh đem thủy quân ra Đà Nẵng. Đến tháng 5 vào cửa Tư Dung, Lê Văn Duyệt phá được quân Tây Sơn, bắt được phò mã Nguyễn Văn Trị và đô đốc Phan Văn Sách rồi vào cửa Eo. Vua Cảnh Thịnh ( Quang Toản ) mang quân ra giữ cửa Eo nhưng thua phải chạy ra Bắc. Ngày 3 tháng 5, Nguyễn Phúc Ánh đem binh vào thành Phú Xuân.
1 tháng 6 (âm lịch) năm Nhâm Tuất (1802) chúa Nguyễn lên ngôi, chọn đế hiệu Gia Long. Vua phong ông là Khâm Sai Chưởng Tả Quân Dinh Bình Tây Tướng Quân, lệnh cùng với Lê Chất mang quân thâu phục Bắc Hà. Chỉ trong vòng một thời gian ngắn thì xong việc.
Lê Văn Duyệt sinh năm Giáp Thân (1764) tại Cù Lao Hổ, cạnh vàm Trà Lọt, nay thuộc làng Hòa Khánh, tỉnh Tiền Giang. Nội tổ là Lê Văn Hiếu từ Quảng Ngãi đi vào Nam sinh sống. Sau khi ông Hiếu qua đời, cha Lê Văn Duyệt là Lê Văn Toại và thân mẫu là Phúc Thị Hào rời Trà Lọt đến ở tại vùng Rạch Gầm, thuộc làng Long Hưng tỉnh Tiền Giang ngày nay.
Ông theo Chúa Nguyễn Ánh từ năm 17 tuổi,đến năm 1789 ông bắt đầu đứng vào hàng tướng lãnh của chúa Nguyễn. Năm 1793, Lê Văn Duyệt cùng với Nguyễn Phúc Ánh đi đánh Qui Nhơn, lấy được phủ Diên Khánh và phủ Bình Khương. Tháng 1 năm 1801 ông cùng chúa và các tướng lãnh khác như Nguyễn Văn Trương, Tống Phước Lương, Võ Di Nguy đánh chiếm cửa biển Thị Nại (trận Thị Nại). Quân Tây Sơn thua to. Tháng 4 Nguyễn Phúc Ánh đem thủy quân ra Đà Nẵng. Đến tháng 5 vào cửa Tư Dung, Lê Văn Duyệt phá được quân Tây Sơn, bắt được phò mã Nguyễn Văn Trị và đô đốc Phan Văn Sách rồi vào cửa Eo. Vua Cảnh Thịnh ( Quang Toản ) mang quân ra giữ cửa Eo nhưng thua phải chạy ra Bắc. Ngày 3 tháng 5, Nguyễn Phúc Ánh đem binh vào thành Phú Xuân.
1 tháng 6 (âm lịch) năm Nhâm Tuất (1802) chúa Nguyễn lên ngôi, chọn đế hiệu Gia Long. Vua phong ông là Khâm Sai Chưởng Tả Quân Dinh Bình Tây Tướng Quân, lệnh cùng với Lê Chất mang quân thâu phục Bắc Hà. Chỉ trong vòng một thời gian ngắn thì xong việc.
17 tháng 4, 2011
13 tháng 4, 2011
5 tháng 4, 2011
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)